𝐒𝐚𝐮 𝐤𝐡𝐢 𝐬𝐢𝐞̂𝐮 𝐛𝐚̃𝐨 “𝐌𝐚 𝐊𝐞̂́𝐭 – 𝐘𝐚𝐠𝐢” đ𝐢 𝐪𝐮𝐚, đ𝐢𝐞̂̀𝐮 đ𝐚́𝐧𝐠 𝐬𝐨̛̣ 𝐧𝐡𝐚̂́𝐭 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐩𝐡𝐚̉𝐢 𝐥𝐚̀ 𝐡𝐨̛𝐧 𝟐𝟓 𝐧𝐠𝐚̀𝐧 𝐜𝐚̂𝐲 𝐱𝐚𝐧𝐡 𝐛𝐚̣̂𝐭 𝐠𝐨̂́𝐜 𝐨̛̉ 𝐇𝐚̀ 𝐍𝐨̣̂𝐢, 𝐦𝐚̀ 𝐥𝐚̀ 𝐥𝐮̃ 𝐥𝐮̣𝐭 𝐯𝐨̛́𝐢 𝐡𝐚̣̂𝐮 𝐪𝐮𝐚̉ 𝐜𝐮𝐨̂́𝐢 𝐜𝐮̀𝐧𝐠 𝐥𝐚̀ 𝐝𝐢̣𝐜𝐡 𝐛𝐞̣̂𝐧𝐡. 𝐋𝐮̃ 𝐬𝐨̂𝐧𝐠 𝐂𝐚̂̀𝐮, 𝐬𝐨̂𝐧𝐠 𝐓𝐡𝐚𝐨 𝐯𝐚̀ đ𝐚̣̆𝐜 𝐛𝐢𝐞̣̂𝐭 𝐥𝐚̀ 𝐬𝐨̂𝐧𝐠 𝐇𝐨̂̀𝐧𝐠 đ𝐚̃ 𝐯𝐮̛𝐨̛̣𝐭 𝐦𝐨̂́𝐜 𝐥𝐢̣𝐜𝐡 𝐬𝐮̛̉ 𝐧𝐚̆𝐦 𝟏𝟗𝟔𝟖. 𝐓𝐡𝐚̀𝐧𝐡 𝐩𝐡𝐨̂́ 𝐘𝐞̂𝐧 𝐁𝐚́𝐢 đ𝐚̃ 𝐛𝐢̣ 𝐧𝐡𝐚̂́𝐧 𝐜𝐡𝐢̀𝐦. 𝐓𝐡𝐚̀𝐧𝐡 𝐩𝐡𝐨̂́ 𝐓𝐡𝐚́𝐢 𝐍𝐠𝐮𝐲𝐞̂𝐧 𝐜𝐨́ 𝐧𝐨̛𝐢 𝐧𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐧𝐠𝐚̣̂𝐩 𝐥𝐞̂𝐧 𝐭𝐚̂̀𝐧𝐠 𝐡𝐚𝐢. 𝐇𝐚̀ 𝐍𝐨̣̂𝐢 𝐧𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐬𝐨̂𝐧𝐠 𝐇𝐨̂̀𝐧𝐠 𝟐𝟏 𝐠𝐢𝐨̛̀ đ𝐞̂𝐦 𝐪𝐮𝐚 𝐭𝐚̆𝐧𝐠 𝐫𝐚̂́𝐭 𝐧𝐡𝐚𝐧𝐡, 𝐦𝐚̂́𝐩 𝐦𝐞́ 𝐜𝐚̂̀𝐮 𝐋𝐨𝐧𝐠 𝐁𝐢𝐞̂𝐧, 𝐧𝐠𝐮̛𝐨̛̀𝐢 𝐝𝐚̂𝐧 𝐧𝐠𝐨𝐚̀𝐢 đ𝐞̂ 𝐜𝐡𝐚̣𝐲 𝐥𝐮̃ 𝐱𝐮𝐲𝐞̂𝐧 đ𝐞̂𝐦.
Bài này tôi viết về trồng cây.
Một thế giới không có cây cối là một thế giới chết, ngay cả trong sa mạc cũng sẽ có loài dương Euphrates ngoan cường, hay chí ít cũng có xương rồng. Người dân sống ở các thành phố hiện đại không thể sống thiếu cây xanh, nhưng chúng ta nên trồng một cây non và đợi nó lớn lên thành một cây cao chót vót, hay đơn giản là về nông thôn đào những cây lớn để bỗng nhiên biến thành phố của chúng ta trở nên xanh tươi, câu trả lời đúng là phải dựa vào những hiểu biết về cây và trồng cây. Trong vài năm qua, Hà Nội đã trồng những cây lớn để phủ xanh, nhưng dường như vẫn đang trong giai đoạn thăm dò.
𝐕𝐚̣̂𝐲 𝐜𝐚̂𝐲 𝐥𝐨̛́𝐧 𝐜𝐨́ 𝐯𝐚𝐢 𝐭𝐫𝐨̀ 𝐠𝐢̀ 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐯𝐢𝐞̣̂𝐜 𝐩𝐡𝐮̉ 𝐱𝐚𝐧𝐡 𝐯𝐚̀ 𝐱𝐚̂𝐲 𝐝𝐮̛̣𝐧𝐠 𝐦𝐨̂𝐢 𝐭𝐫𝐮̛𝐨̛̀𝐧𝐠 𝐬𝐢𝐧𝐡 𝐭𝐡𝐚́𝐢 đ𝐨̂ 𝐭𝐡𝐢̣?
Ở các nước trên thế giới, ngoài cây lớn, thành phố còn có những cây bụi và bãi cỏ. Màu xanh của lá cây chính là “lá phổi” của thành phố. Cây lớn hấp thụ CO2 và tạo ra O2 gấp năm lần so với bãi cỏ. Khả năng hút bụi của cây lớn gấp ba lần so với bãi cỏ. Nhiệt độ dưới bóng cây thấp hơn nhiệt độ ở bãi cỏ khoảng 5 độ C. Mỗi , một cây cỡ trung bình (đường kính ngang ngực khoảng 25 cm) có thể tạo ra lượng oxy trị giá 620 đô la, giá trị ngăn ngừa ô nhiễm không khí là 1.240 đô la, giá trị duy trì nước và đất là 740 đô la, giá trị tăng độ phì nhiêu là 620 đô la Mỹ. Cộng thêm tất cả giá trị của việc che chở cho con người, cung cấp tổ và sản xuất protein, tổng số tiền là 3.920 đô la.
Trồng cây lớn giúp làm thay đổi bộ mặt thành phố trong thời gian ngắn, hiệu ứng phủ xanh nhanh, đóng vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện môi trường sống và hệ sinh thái đô thị. Cành và lá tươi tốt của nó có thể thực hiện quá trình thoát hơi nước và quang hợp mạnh mẽ, từ đó làm tăng độ ẩm và tăng hàm lượng oxy trong không khí, đồng thời làm giảm lượng bụi. Vào mùa mưa, cây lớn có khả năng chặn nước mưa rất tốt, giảm sự xói mòn của nước mưa trên bề mặt đất nên có vai trò sinh thái rất tốt. Nhờ chiều cao và độ um tùm với tán lá rộng, nên tỉ lệ không gian xanh đô thị, tỉ lệ tầm nhìn xanh và tỉ lệ chỉ số thị giác của cây lớn sẽ cao hơn nhiều so với cây bụi và bãi cỏ.
𝐓𝐚̣𝐢 𝐬𝐚𝐨 𝐥𝐚̣𝐢 𝐭𝐫𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐲 𝐥𝐨̛́𝐧 𝐦𝐚̀ 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐭𝐫𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐲 𝐜𝐨𝐧?
Sinh lí thực vật cho thấy, cây con đang trong thời kì sinh trưởng mạnh mẽ, có độ dẻo dai, khả năng thích ứng mạnh với môi trường mới sau khi trồng. Vì vậy, tỉ lệ chết thấp, dễ trồng, cây có sức sống mãnh liệt và có tuổi thọ cao sau khi sống sót.
Ngược lại, cây lớn có độ dẻo giảm và khả năng thích ứng kém. Trong quá trình trồng, hầu hết rễ chính, hệ thống rễ và thân cành chính đều bị cắt bỏ, thân cây bị hư hại nghiêm trọng. Nếu đất và nước không phù hợp, công nghệ trồng đạt tiêu chuẩn, quản lí kém, thì cây lớn dễ chết. Ngay cả khi cây lớn sống được trong vòng 3 đến 5 năm, hầu hết trở thành những cây cổ thụ thiếu sức sống trong vòng hơn mười năm, mất dần chức năng môi trường và sinh thái, tạo thành một nhóm cây xanh dễ bị tổn thương lớn trong thành phố.
Vấn đề trồng cây lớn trong thành phố cần được nhìn nhận một cách biện chứng. Ngày nay, ngày càng có nhiều tòa nhà được xây dựng, đô thị ngày càng mở rộng. Xây dựng cảnh quan là một phần rất quan trọng trong việc đo lường và đánh giá một thành phố. Cây nhỏ rất yếu, tán cây bé nên không đạt được hiệu quả bổ sung cây xanh cho các tòa nhà cao tầng. Vì vậy, phương án thiết kế hiện tại yêu cầu đường kính ngang ngực từ 5 – 15 cm để mang lại hiệu quả sinh thái ngay lập tức. Nhưng một cây như vậy phải mất ít nhất 20 năm để phát triển. Vì vậy, việc trồng cây lớn đang là xu hướng. Nhưng nguồn cây không đơn giản. Có một số giải pháp, như cây từ các đô thị tái thiết, cây trong khu vực dân cư cần loại bỏ, cây từ giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm, cây từ trên núi xuống. Những cây sống trong môi trường tự nhiên này, để đảm bảo cây sống được thì phải tốn nhiều công sức. Bởi vì, cây bị loại bỏ rễ và cành và lá, cộng thêm vận chuyển đường dài, để sống sót thì không thể phụ thuộc vào may rủi. Ngay cả khi nó sống sót, nếu không trồng đúng kĩ thuật thì chỉ là một cái cây cao chót vót với những“cánh tay”bị gãy, hiệu quả chỉ là để phủ xanh và làm đẹp nó một cách nhanh chóng, mà không có tính bền vững.
Trong tự nhiên, mỗi cây lớn là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, nó hình thành mối quan hệ cộng sinh tốt với đất nơi nó phát triển, các sinh vật trong đất, lớp phủ mặt đất dưới gốc cây, các loài chim, động vật và côn trùng trên cây. Sau khi cây lớn bị di dời khỏi nơi sinh trưởng, hệ sinh thái của toàn bộ cộng đồng sẽ bị tàn phá nghiêm trọng, đất đai sẽ bị phá hủy, chim chóc và động vật sẽ mất nơi ở. Hậu quả trực tiếp hơn là xói mòn đất, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái của khu vực. Ngoài ra, đặc điểm sinh học của một số loài cây chỉ có thể tồn tại trong môi trường tự nhiên và có thể không thích nghi được với môi trường sinh thái đô thị.
Với những lí do như vậy, thì nguồn cây giống từ vườn ươm là cực kì quan trọng, phải thiết lập các hệ thống vườn ươm quốc gia và khu vực đạt tiêu chuẩn, đủ cung cấp cây lớn cho thành phố. Nếu có vườn ươm đủ tiêu chuẩn, thì cây có đường kính ngang ngực khoảng 5 – 15 cm đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển mạnh, là thời kì tốt nhất để di chuyển vào trồng trong thành phố.
Việc nghiêm túc triển khai vườn ươm có ba lợi ích của việc đưa cây lớn vào thành phố. Thứ nhất, có lợi cho việc tạo ra môi trường sống tốt nhất, có thể cho phép người dân được hưởng lợi ích sinh thái to lớn của rừng ở nông thông và rừng trong phố nếu phủ xanh nhiều cây lớn. Thứ hai, nó có lợi cho việc thay đổi các khái niệm phủ xanh truyền thống. Cây con truyền thống có đường kính từ 1,5 – 5cm rất khó sống sót trong môi trường thành phố. Ngược lại, những cây có đường kính từ 5 – 15cm rất dễ sống sót. Thời gian trồng cây giống truyền thống kéo dài, việc chăm sóc khó khăn và hiệu quả cảnh quan không dễ đạt được. Khi những cây lớn vào thành phố, cây có thể cho bóng mát sớm hơn 15 – 20 năm so với cây con truyền thống, nếu trồng nhiều sẽ trở thành rừng và tạo cảnh quan đẹp chỉ trong một thời gian cực ngắn. Thứ ba, là tạo điều kiện cho nông dân thoát nghèo, thậm chí trở nên giàu có.
𝐇𝐨̛𝐧 𝟐𝟓.𝟎𝟎𝟎 𝐜𝐚̂𝐲 𝐛𝐢̣ 𝐠𝐚̃𝐲 đ𝐨̂̉, 𝐧𝐡𝐮̛ 𝐯𝐚̣̂𝐲 𝐜𝐨́ 𝐩𝐡𝐚̉𝐢 𝐥𝐚̀ 𝐧𝐡𝐢𝐞̂̀𝐮 𝐬𝐚𝐮 𝐦𝐨̣̂𝐭 𝐭𝐫𝐚̣̂𝐧 𝐬𝐢𝐞̂𝐮 𝐛𝐚̃𝐨 𝐘𝐚𝐠𝐢, 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐲 𝐛𝐢̣ đ𝐨̂̉ 𝐜𝐨́ 𝐭𝐡𝐞̂̉ 𝐝𝐮̛̣𝐧𝐠 𝐥𝐚̣𝐢 đ𝐮̛𝐨̛̣𝐜 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠?
Hà Nội hiện có khoảng 1,8 triệu cây xanh đô thị, cơn bão Yagi với sức gió 102 km/h, đã quật ngã hơn 25 ngàn cây xanh.
Hãy làm phép so sánh tương tự!
Hồng Kông có 1,6 triệu cây xanh, siêu bão Mangkhut năm 2018 đã quật ngã hơn 30 ngàn cây. Theo số liệu do Cục Phát triển công bố, có hơn 20.000 tấn cành cây đổ cuối cùng đã được vận chuyển đến bãi rác Tây New Territories để xử lí, chỉ có khoảng 3.000 tấn được cắt thành dăm gỗ, tái chế và sử dụng. Sau cơn bão này, chính quyền Hồng Kông đã ghi lại từng cây, lập hồ sơ theo dõi, có biện pháp chống bão tích cực. Đến tháng 9 năm 2023, siêu bão Sula đổ bộ vào Hồng Kông cũng không thua kém gì siêu bão Mangkhut, nhưng chỉ quật ngã hơn 3.700 cây. Một trong những cây đa cổ thụ ở làng Ping Shek bị đổ do bão, thân cây khổng lồ nằm chắn ngang công viên của làng. Cây này đã trải qua hàng trăm cơn bão và cơn mưa lớn thế kỉ. Cây đa này bị cắt bỏ. Các chuyên gia cây ở Hồng Kông cho rằng, nếu cây đa được dựng lên từ sớm, tưới đủ nước thì vẫn có cơ hội sống sót, nhưng chính quyền đã bỏ rơi không cứu, 11 ngày sau cây bị chặt bỏ.
Thực tế cây đã đổ rất khó để cứu.
Phân tích từ sinh lí cây, do hệ thống rễ của những cây lớn bị tổn thương nặng trong quá trình trồng, nay bị đổ lại thêm lần nữa tái phát tổn thương, nên việc dựng cây dậy thì khả năng hút nước của rễ sẽ giảm đi rất nhiều. Một mặt, sự nảy mầm, phân nhánh của các bộ phận trên mặt đất và việc chữa lành vết thương trên thân cây đòi hỏi phải cung cấp nhiều chất dinh dưỡng, mà muốn cung cấp được thì đòi hỏi phải có bầu đất hoặc truyền dịch cho cây, điều này cực kì khó khăn với 37 ngàn cây cùng lúc trong thành phố, nên chỉ có thể đưa về vườn ươm nhưng cũng khá tốn kém. Mặt khác, việc chữa lành vết thương của rễ chính dưới lòng đất, tái tạo rễ mới, rễ xơ,… tất cả đều phải dựa vào việc tiêu thụ chất dinh dưỡng được lưu trữ trong thân cây. Điều này sẽ gây ra sự mất cân bằng cung cầu dinh dưỡng khiến cây bị khô héo. Ngoài ra. Ở những vết thương khô, vi khuẩn dễ dàng xâm nhập và gây nấm mốc. Vì thế, ngay cả khi cây lớn dựng lên sống sót, thì hai ba năm sau, do cây sinh trưởng yếu nên có sự chênh lệch rất lớn giữa cây này với những cây phát triển bình thường khác cùng loài về khả năng chống chọi với nhiều môi trường bất lợi (thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, sâu bệnh, v.v.), từ đó hình thành một cái cây yếu ớt không thể phát huy hết các chức năng bảo vệ khác nhau. Đó là chưa kể, ngay cả những cây lớn cành úa, lá thưa, rễ sâu, thì dù sống sót và nhiều lá, cuối cùng cũng chỉ trở thành “cây cổ thụ nhỏ yếu ớt”.
𝐊𝐞̂̉ 𝐭𝐮̛̀ 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐧𝐚̆𝐦 𝟏𝟗𝟗𝟎, 𝐚𝐢 𝐜𝐮̃𝐧𝐠 𝐭𝐮̛̀𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐢̀𝐧 𝐭𝐡𝐚̂́𝐲 𝐭𝐫𝐞̂𝐧 𝐭𝐢 𝐯𝐢 𝐡𝐨𝐚̣̆𝐜 𝐧𝐠𝐨𝐚̀𝐢 đ𝐨̛̀𝐢 𝐭𝐡𝐮̛̣𝐜, 𝐜𝐚̉𝐧𝐡 𝐜𝐚́𝐜 𝐧𝐡𝐚̀ 𝐥𝐚̃𝐧𝐡 đ𝐚̣𝐨 𝐭𝐫𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐧 𝐥𝐨̛́𝐧, 𝐭𝐡𝐚̀𝐧𝐡 𝐩𝐡𝐨̂́ 𝐭𝐫𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐲 𝐥𝐨̛́𝐧 𝐯𝐨̛́𝐢 𝐠𝐚̣̂𝐲 𝐜𝐡𝐨̂́𝐧𝐠, 𝐚́𝐨 𝐭𝐨̛𝐢 𝐪𝐮𝐚̂́𝐧 𝐭𝐡𝐚̂𝐧 𝐯𝐚̀ 𝐦𝐮̃ đ𝐞̂̉ 𝐜𝐡𝐞 𝐧𝐚̆́𝐧𝐠.
Các công nghệ mới được sử dụng để trồng cây lớn: rải thuốc khử trùng đất, phun thuốc chống thối rễ, chống ăn mòn rễ cây lớn, trộn đất than bùn, tưới bột tạo rễ, dung dịch ra rễ, tiêm hoặc truyền dịch vào thân cây, phun chất chống hấp, bôi trơn vết thương. Đó là những biện pháp không phải ai cũng nhìn thấy. Nhưng các biện pháp thông thường khác thì rất dễ quan sát, như che nắng, bọc kín bầu đất, trồng càng sớm càng tốt sau khi bứng cây khỏi đất, quấn thân cây bằng vải và dây, màng bọc, v.v.
𝑃ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑝ℎ𝑎́𝑝 𝑡𝑟𝑜̂̀𝑛𝑔 𝑐𝑎̂𝑦 𝑙𝑜̛́𝑛.
❶ Trong 15 ngày trước khi trồng.
1.1. Tưới cây, cắt bỏ rễ theo kích thước của bầu đất dự trữ;
1.2. Đánh số, định hướng cây, đánh dấu hướng Bắc – Nam trên thân cây để cây sau khi trồng trong thành phố vẫn giữ được hướng ban đầu;
1.3. Dùng bột kích rễ phun đều lên lá để thúc đẩy sự phát triển của số lượng lớn rễ phụ ở những rễ bị gãy.
❷ Tỉa thưa cành trước khi cấy
Đối với những cây lớn đã thành thân, thường chọn 3 đến 5 cành chính cắt cách thân cây từ 2 đến 3 mét, những cành còn lại cắt cách thân cây 55 đến 60 cm, vết cắt được bịt kín bằng vết thương để giảm sự bốc hơi nước và tránh nước mưa xâm nhập vào vết thương.
𝑁𝑔𝑢𝑦𝑒̂𝑛 𝑡𝑎̆́𝑐 𝑘𝑖̃ 𝑡ℎ𝑢𝑎̣̂𝑡.
❶ Đặc điểm cây lớn
– Cây già: khả năng tái tạo tế bào kém, sức sống cây thấp;
– Cây cao: Nước và chất dinh dưỡng khó vận chuyển lên ngọn, cành trên dễ thoát nước;
– Thân cây nặng, khó nâng và mang;
– Diện tích cây lớn: khó vận chuyển cùng cây;
– Cây là một cơ thể sống: dây treo khó có thể tác dụng lực mạnh lên một bộ phận nào đó của cây;
– Thân cây to: khó vận chuyển.
❷ Cây lớn cần:
– Trên mặt đất: Thân và lá cần nước, chất dinh dưỡng, ánh sáng, hô hấp,…;
– Dưới lòng đất: Chất dinh dưỡng trong nước, oxy, hô hấp của rễ, chế phẩm sinh học, áp lực của rễ, v.v.
– Môi trường sống: Môi trường sống gần đúng của cây lớn là ánh sáng, không khí, nhiệt độ, các điều kiện vi khí hậu và điều kiện đất đai (pH đất, trạng thái dinh dưỡng, loại đất, độ ẩm khô, độ thoáng khí, v.v.). Điều kiện môi trường sống của địa điểm trồng phải tương tự như điều kiện môi trường sống của địa điểm trồng trọt ban đầu. Vì thế, vườn ươm nên gần thành phố, đảm bảo môi trường tương tự để cây có khả năng sống sót cao.
𝐾𝑖𝑒̂́𝑛 𝑡ℎ𝑢̛́𝑐 𝑐𝑜̛ 𝑏𝑎̉𝑛.
❶ Tiêu chí lựa chọn
– Đường kính ngang ngực: Cây ≥ 5cm, tốt nhất từ 8 – 10cm;
– Chiều cao cây: Cây tán rộng ≥ 4m;
– Hoàn thành giai đoạn phát triển và cơ bản hình thành;
– Cây khỏe mạnh, không bị sâu bệnh, đặc biệt là sâu đục thân;
– Ưu tiên những cây bản địa có hệ thống rễ nông, sinh trưởng vững chắc và khả năng tái sinh mạnh.
❷ Yếu tố mùa vụ.
– Mùa xuân: Cây dự trữ nhiều chất dinh dưỡng vào mùa đông, trọng lượng cây (đơn vị khối) nặng hơn. Khi nhiệt độ mặt đất và khí hậu tăng lên, cây thức dậy, tăng tốc sinh trưởng nên dễ sống sót khi trồng.
– Mùa hè: Do các yếu tố như nhiệt độ mặt đất, nhiệt độ không khí, độ ẩm nên quá trình trao đổi chất của cây lớn diễn ra rất mạnh mẽ. Vào mùa đông và mùa xuân, chất dinh dưỡng dự trữ giảm xuống mức thấp nhất, trọng lượng của cây là nhẹ nhất, tiêu thụ chất dinh dưỡng trong nước lớn, sinh trưởng mạnh, nên tỉ lệ sống sót khi trồng là rất thấp.
– Mùa Thu: Do nhiệt độ mặt đất và không khí giảm nên cây sinh trưởng yếu đi, quá trình trao đổi chất của cây chậm lại, cây rụng lá cũng giảm đi, nên trồng khả năng sống không cao.
– Mùa đông: Cây bước vào thời kỳ ngủ đông nhưng không ngừng nghỉ. Là thời kỳ dự trữ, tích lũy chất dinh dưỡng, lượng bốc hơi giảm đi, nên lệ sống sót của cây cũng rất thấp.
𝑇𝑟𝑜̂̀𝑛𝑔 𝑣𝑎̀ 𝑐ℎ𝑎̆𝑚 𝑠𝑜́𝑐.
❶ Hố đất.
– Đường kính hố đất: Để trồng một cây lớn, đường kính hố cần tối thiểu gấp 10 lần đường kính thân cây. Ví dụ, một cây lớn có đường kính 15 cm thì cần đào một cái hố lớn có đường kính 1,5 mét, cộng thêm không gian vận hành.
– Chiều sâu hố đất tối thiểu để cây sống sót: Cây tán rộng là 45cm, cây rễ nông 60cm, cây rễ sâu 90cm.
– Chiều sâu tối thiểu để trồng cây: Cây tán rộng là 60cm, cây rễ nông 60cm, cây rễ sâu 150cm.
❷ Bầu đất: Cây mới trồng rễ không thể hút được chất dinh dưỡng từ bên ngoài, vì thế mà bầu đất có bổ sung chất dinh dưỡng là rất quan trọng, đảm bảo cây sống được 1 – 2 năm. Vì vậy, bầu đấy cần được bọc bằng vải, hoặc các vật liệu tự tiêu huỷ theo thời gian, nhằm đảm bảo bầu không bị vỡ, đồng thời thời rễ sẽ phát triển ra bên ngoài bầu, đảm bảo bộ rễ bền vững và đủ hút nước cùng chất dinh dưỡng sau này.
❸ Định hướng rễ cây.
– Khi chọn cây trồng đô thị, cần chọn cây có bộ rễ ngoan, tức là ít gây hiện tượng kênh rễ. Cũng tránh cây sinh trưởng nhanh, có bộ rễ nông, rễ ván, rễ trên không, hoặc rễ hô hấp trên vỉa hè, rễ không chịu được gió mạnh.
– Nhưng trong thành phố, rễ cây luôn phải cạnh tranh với công trình xây dựng, bê tông, đường dây điện ngầm và đường cáp, áp lực mặt đường xe cộ và người qua lại. Vì thế mà bộ rễ rất khó khăn để phát triển. Thông thường, mỗi cây đô thị rất khó để có 1 mét khối đất phát triển rễ, mà bộ rễ chủ yếu rất nông do hiện tượng bê tông hoá và tưới nước hàng ngày, nên vùng đất sâu không có nước, rễ chỉ phát triển ở lớp nông.
– Kĩ thuật “Soil Cell – Mô đun cấu trúc khoang rễ cây”: Kĩ thuật này được thực hiện ở châu Âu, là một hệ thống định hướng rễ, để bộ rễ phát triển theo hướng có kiểm soát, đảm bảo cây hút đủ nước và chất dinh dưỡng, nhưng lại không làm ảnh hưởng đến các công trình.
❹ Chăm sóc:
Chăm sóc bộ rễ bằng phun thuốc kích thích rễ, bón chất dinh dưỡng trong bầu, đảm bảo cây sống sót từ 1-2 năm sau khi trồng. Chú ý giai đoạn đầu trồng cây lớn, bộ rễ có khả năng hấp thụ phân kém nên bón thúc ngoài rễ, thường khoảng nửa tháng một lần. Sử dụng urê, amini sunfat, kali dihydro photphat và các loại phân bón tác dụng nhanh khác pha chế dung dịch có nồng độ 0,5% đến 1%, phun vào buổi sáng và buổi tối. Sau khi rễ nảy mầm có thể tiến hành bón phân cho đất, thường xuyên bón phân mỏng và chú ý tránh làm hư rễ. Để duy trì độ thoáng của đất tốt và tạo điều kiện cho rễ nảy mầm, cần xới đất để tránh bị nén chặt đất.
– Ngoài ra, vì cây bị chặt rễ, nên khi trồng trở thành “cây không rễ”, để không chết cây có thể tiêm hoặc truyền chất dinh dưỡng vào thân cây. Hiện nay, các túi chất dinh dưỡng dạng dịch truyền cho cây, cũng chẳng khác túi truyền dịch cho người, thậm chí một số còn làm đẹp hơn. Có thể là chai dịch truyền, cũng có thể là túi dịch truyền, được cắm kim để truyền trực tiếp vào thân, nuôi dưỡng cho cây.
❺ Chống gậy cho cây: Để tránh bị đổ, cây mới trồng được chống đỡ hình tam giác, điểm đỡ khoảng 2/3 chiều cao thân cây, cần thêm lớp bảo vệ để tránh tổn thương vỏ cây.