Bệnh lí và các biện pháp phòng ngừa Khoa học kỹ thuật

Sự thật về liệu pháp “ma cà rồng” – lọc máu

𝐋𝐨̣𝐜 𝐦𝐚́𝐮 𝐜𝐨́ 𝐭𝐡𝐞̂̉ 𝐥𝐚̀𝐦 đ𝐞̣𝐩, 𝐠𝐢𝐮́𝐩 𝐭𝐫𝐢̀ 𝐡𝐨𝐚̃𝐧 𝐤𝐢𝐧𝐡 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐭 𝟏𝟎 𝐧𝐚̆𝐦, 𝐤𝐞́𝐨 𝐝𝐚̀𝐢 𝐭𝐮𝐨̂̉𝐢 𝐭𝐡𝐨̣ 𝐭𝐡𝐞̂𝐦 𝟐𝟎 𝐧𝐚̆𝐦 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠? 𝐁𝐚́𝐜 𝐬𝐢̃ 𝐏𝐡𝐮́𝐜 𝐠𝐢𝐚̉𝐢 𝐭𝐡𝐢́𝐜𝐡, 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐥𝐨̛̀𝐢 𝐪𝐮𝐚̉𝐧𝐠 𝐜𝐚́𝐨 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 đ𝐮́𝐧𝐠 𝐬𝐮̛̣ 𝐭𝐡𝐚̣̂𝐭, 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̂𝐧 𝐥𝐢́ 𝐥𝐨̣𝐜 𝐦𝐚́𝐮 𝐡𝐢𝐞̣̂𝐧 đ𝐚̣𝐢 𝐧𝐡𝐚̂́𝐭 𝐡𝐢𝐞̣̂𝐧 𝐧𝐚𝐲 𝐜𝐮̃𝐧𝐠 𝐭𝐮̛𝐨̛𝐧𝐠 𝐭𝐮̛̣ 𝐧𝐡𝐮̛ 𝐜𝐡𝐚̣𝐲 𝐭𝐡𝐚̣̂𝐧 𝐧𝐡𝐚̂𝐧 𝐭𝐚̣𝐨, 𝐫𝐮̉𝐢 𝐫𝐨 𝐜𝐮̛̣𝐜 𝐤𝐢̀ 𝐜𝐚𝐨, 𝐭𝐫𝐮̛𝐨̛̀𝐧𝐠 𝐡𝐨̛̣𝐩 𝐧𝐚̣̆𝐧𝐠 𝐜𝐨́ 𝐭𝐡𝐞̂̉ 𝐭𝐮̛̉ 𝐯𝐨𝐧𝐠.

Cách đây một năm, có người bạn nói với tôi rằng, thế giới đang có một liệu pháp “thanh lọc máu” không chỉ giúp cải thiện tình trạng sức khỏe, mà còn có thể điều trị nhiều bệnh mãn tính, làm đẹp da, thậm chí có thể trì hoãn thời kì mãn kinh 10 năm và kéo dài tuổi thọ thêm 20 năm. Công nghệ hiện chăm sóc sức khoẻ hiện đại này, đang được các nước phát triển như Châu Âu và Hoa Kỳ đề xuất thành một khái niệm sức khỏe mới về thanh lọc và giải độc máu, được giới thương lưu Nhật Bản ưa chuộng. Giá của một liệu pháp “thần kì” như vậy chỉ mất khoảng 200 triệu. Ở tại Việt Nam, đã có những bên trung gian cung cấp cho người dân các dịch vụ lọc máu ở nước ngoài như Singapore hay Nhật Bản, nếu các bác sĩ Việt Nam nhạy bén thì hoàn toàn có thể đón lõng kiếm lời.

Tôi buồn cười về cái liệu pháp “ma cà rồng” này.

Một người bạn khác cũng kể với tôi rằng, anh trai định cư bên Đức đã lập kế hoạch đưa cả đại gia đình sang Nhật Bản để lọc máu, nhưng đang chờ dịp khuyến mãi để giảm chi phí xuống 120 triệu.

Thực ra, công nghệ lọc máu hiện đại nhất hiện nay là “trao đổi huyết tương kép – DFPP”, có bản chất như chạy thận nhân tạo.

Hãy điểm chút lịch sử!

Năm 1854, nhà hóa học người Scotland Thomas Graham lần đầu tiên đề xuất khái niệm “lọc máu”. Năm 1913, John Abel và các cộng sự đã tiến hành thí nghiệm đầu tiên trên động vật sống và tạo ra máy thẩm tách hình ống. Năm 1924, Georg Haas của Đức lần đầu tiên áp dụng công nghệ lọc máu cho con người. Năm 1943, Willem Johan Kolff của Hà Lan đã thiết kế thận nhân tạo dạng trống quay và điều trị thành công cho bệnh nhân suy thận cấp. Với sự tiến bộ của công nghệ, máy lọc sợi rỗng đầu tiên xuất hiện vào những năm 1960, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả lọc máu. Về phương pháp lọc máu, ngoài chạy thận nhân tạo truyền thống, truyền máu, trao đổi huyết tương và các phương pháp khác cũng lần lượt xuất hiện. Bước sang thế kỷ 21, các thiết bị lọc máu ngày càng nhỏ gọn và thông minh hơn, giúp việc điều trị trở nên dễ dàng và chính xác hơn.

Trao đổi huyết tương là một công nghệ lọc máu đặc biệt có nguồn gốc từ những năm 1960 và ban đầu được phát triển để điều trị bệnh nhược cơ. Trong những ngày đầu, trao đổi huyết tương chủ yếu được sử dụng để điều trị một số bệnh miễn dịch. Nó có thể nhanh chóng loại bỏ các tự kháng thể và phức hợp miễn dịch trong cơ thể, từ đó làm giảm tổn thương bệnh lí. Với sự phát triển của công nghệ, lĩnh vực ứng dụng trao đổi huyết tương đã dần mở rộng sang điều trị rối loạn chuyển hóa lipid, suy gan và các bệnh khác. Công nghệ trao đổi huyết tương truyền thống là tách huyết tương ra khỏi máu và loại bỏ hoàn toàn, đồng thời bổ sung lượng tương đương huyết tương tươi đông lạnh và dung dịch albumin. Nhược điểm của phương pháp này là đắt tiền hơn lọc máu truyền thống. Huyết tương thải ra không chỉ chứa chất gây bệnh, mà còn chứa nhiều thành phần có lợi như yếu tố đông máu cần được bổ sung, trong khi nguồn máu hiện rất khan hiếm.

Trên cơ sở đó người ta đã phát minh ra công nghệ “trao đổi huyết tương kép – DFPP”, tức là huyết tương tách khỏi máu, sau đó loại bỏ các protein đại phân tử gây bệnh trong huyết tương, để lại các thành phần có lợi rồi truyền lại vào cơ thể.

𝐍𝐠𝐮𝐲𝐞̂𝐧 𝐥𝐢́ 𝐜𝐮̉𝐚 𝐃𝐅𝐏𝐏 𝐥𝐚̀ 𝐠𝐢̀?

Về nguyên lí hoạt động, DFPP là phương pháp xử lí lọc huyết tương hai lần để loại bỏ có chọn lọc các tác nhân gây bệnh phân tử lớn. Được hình thành bằng cách chồng chất hữu cơ của hai công nghệ lọc máu cơ bản tương tự nhau: công nghệ tách huyết tương (cắt khối lượng phân tử lớn 3.000.000, tách huyết tương và các thành phần hữu hình là hồng cầu, tiểu cầu và bạch cầu) và công nghệ tách thành phần huyết tương (cắt khối lượng phân tử 500.000, tách protein phân tử lớn). Tức là, huyết tương ban đầu được tách ra bằng máy tách huyết tương có màng lọc lỗ lớn, sau đó được đưa qua máy tách thành phần huyết tương với màng lọc có kích thước lỗ nhỏ hơn, để loại bỏ các yếu tố gây bệnh có khối lượng phân tử tương đối lớn hơn albumin trong huyết tương của bệnh nhân, chẳng hạn như kháng thể tự miễn, globulin miễn dịch, phức hợp miễn dịch và các chất gây bệnh phân tử lớn khác, huyết tương sau khi lọc chứa một lượng lớn các thành phần albumin được đưa trở lại cơ thể bệnh nhân. Điều này có thể loại bỏ các kháng thể tự miễn, giảm các chất trung gian gây viêm trong huyết thanh, điều chỉnh chức năng miễn dịch và phục hồi chức năng miễn dịch tế bào và chức năng thực bào của tế bào lưới nội mô. Về mặt lâm sàng, nó chủ yếu được sử dụng để loại bỏ các chất gây bệnh đại phân tử như immunoglobulin và lipoprotein.

𝐃𝐅𝐏𝐏 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐭𝐡𝐮̛̣𝐜 𝐡𝐚̀𝐧𝐡 𝐲 𝐤𝐡𝐨𝐚 𝐧𝐡𝐮̛ 𝐭𝐡𝐞̂́ 𝐧𝐚̀𝐨?

Trong điều trị lâm sàng, DFPP chủ yếu được chỉ định ở một số bệnh nhân nặng, do các globulin miễn dịch phân tử lớn hoặc phức hợp miễn dịch, lipoprotein gây ra.

– Bệnh nhược cơ

– Hội chứng Guillain-Barré

– Bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE)

– Viêm khớp dạng thấp

– Tăng lipid máu

– Viêm tụy cấp tính nặng

– Nhiễm trùng huyết

– Suy gan cấp nặng… và một số bệnh khác.

Hiện tại, ở các bệnh viện lớn trong nước, đã trang bị các thế hệ máy siêu lọc DFPP, có thể được thực hiện tại giường để làm giảm tình trạng bệnh.

Chống chỉ định tương đối của DFPP bao gồm: bệnh nhân có tiền sử dị ứng với màng hoặc ống của máy tách huyết tương hoặc máy tách thành phần huyết tương, chảy máu nghiêm trọng, đông máu nội mạch rải rác, xuất huyết nội sọ hoặc phù não nghiêm trọng kèm theo thoát vị não, suy tuần hoàn toàn thân khó điều chỉnh bằng thuốc, nhồi máu cơ tim không ổn định, v.v.

𝐃𝐅𝐏𝐏 𝐡𝐚𝐲 𝐜𝐡𝐚̣𝐲 𝐭𝐡𝐚̣̂𝐧 𝐧𝐡𝐚̂𝐧 𝐭𝐚̣𝐨 𝐜𝐡𝐢̉ 𝐥𝐚̀ 𝐠𝐢𝐚̉𝐢 𝐩𝐡𝐚́𝐩 𝐭𝐢̀𝐧𝐡 𝐭𝐡𝐞̂́.

Nhìn chung, các công nghệ lọc máu khác nhau, từ lọc màng bụng (thẩm phân phúc mạc), cho đến chạy thận nhân tạo, rồi đến siêu lọc máu như DFPP, thường được sử dụng ở những bệnh nhân rối loạn chức năng thận và chức năng gan, đóng vai trò phương pháp điều trị phụ trợ. Cho dù công nghệ thay thế y tế hiện tại có tốt đến đâu, thì nó vẫn kém hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan của chính cơ thể con người, chưa kể nhiều vấn đề lợi bất cập hại. Hơn nữa, ngay cả khi những công nghệ DFPP được sử dụng trên bệnh nhân lâm sàng, tác dụng của chúng vẫn gây tranh cãi trong cộng đồng y tế. Ví dụ, nếu công nghệ DFPP được sử dụng ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết, bằng chứng y tế vẫn chưa thể chứng minh rằng nó có thể cải thiện tiên lượng bệnh nhân. Việc sử dụng những công nghệ này lên người khỏe mạnh và cho rằng chúng có tác dụng chăm sóc sức khỏe và có thể làm đẹp, tăng cường sức khoẻ, hay kéo dài tuổi thọ là một hành vi được các bác sĩ chân chính coi là “lừa đảo” ở thời điểm hiện tại. Không có tài liệu y khoa nghiêm ngặt nào xác nhận hoặc thậm chí đề cập rằng DFPP và các công nghệ lâm sàng khác có tác dụng chăm sóc sức khỏe. Việc lừa những người khỏe mạnh sử dụng DFPP và các công nghệ lâm sàng khác để “chăm sóc sức khỏe” không chỉ là lừa đảo và gây hiểu nhầm, mà còn bất hợp pháp.

Tôi lấy ví dụ cho dễ hiểu, với một người bị cholesterol máu tăng, nguyên nhân bao gồm 80% cholesterol nội sinh do rối loạn chuyển hoá, 20% do ăn uống hàng ngày. Nếu người đó sử dụng công nghệ DFPP chỉ 30 phút sau cholesterol máu trở về bình thường. Nhưng sau 3 – 7 ngày, lượng cholesterol máu trở lại như cũ, vì đây là bệnh lí của rối loạn chuyển hoá cùng với chế độ ăn uống, nên DFPP không giải quyết được vấn đề.

Điều này cũng giống như bạn đổ rác trong nhà, vài ngày sau thùng rác lại đầy và bạn phải tiếp tục đổ, bởi vì rác vẫn bị thải ra. Những ai phải chạy thận nhân tạo đều hiểu. Không thể chạy thận một lần là khỏi hẳn. Những bệnh nhân suy thận mãn, phải chạy thận cả đời, có người một tuần chạy thận đến hai lần để loại bỏ các chất dư thừa độc hại.

Nhiều chuyên gia trên thế giới cho rằng, lí do khiến những kẻ lừa đảo thích sử dụng DFPP để đánh lừa công chúng có thể là do công nghệ này còn khá mới, người dân bình thường và thậm chí một số nhân viên y tế không hiểu rõ về nó. Tôi đọc trên Internet, thấy ở nhiều nước có rất nhiều bài viết giả khoa học về lọc máu, họ thường nói về kiến thức y học trước tiên để tạo ấn tượng rất chuyên nghiệp cho người đọc, sau đó lặng lẽ giới thiệu gói bán dưới dạng y khoa và đẩy đến tay độc giả có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và làm đẹp. Theo các gói quảng cáo ở các quốc gia, giá mỗi lần thực hiện DFPP dao động từ 200 triệu đến 2 tỉ đồng tiền VNĐ, giá tuỳ theo đó là Singapore, Nhật hay châu Âu nhưng luôn được khuyến mại vé máy bay, trên thực tế chi phí cho DFPP chỉ khoảng 35 triệu VNĐ.

Trên thế giới, không thiếu những kẻ lừa đảo lợi dụng sự quan tâm của mọi người đối với sức khỏe và dưới chiêu bài khoa học giả phổ biến, thực hiện các hành vi lừa đảo và gây hiểu lầm trong lĩnh vực y tế, quảng cáo nhiều “sản phẩm y tế” và “công nghệ y tế” không hiệu quả hoặc thậm chí có hại. Nhiều người, đặc biệt là người lớn tuổi, họ dễ tin vào những quảng cáo trá hình dưới dạng khoa học phổ thông hơn là nghe theo lời khuyên của các bác sĩ có chuyên môn thực sự.

𝐇𝐚̃𝐲 𝐧𝐡𝐨̛́, 𝐥𝐨̣𝐜 𝐦𝐚́𝐮 𝐧𝐨́𝐢 𝐜𝐡𝐮𝐧𝐠 𝐯𝐚̀ 𝐃𝐅𝐏𝐏 𝐧𝐨́𝐢 𝐫𝐢𝐞̂𝐧𝐠, 𝐜𝐨́ 𝐛𝐚 𝐡𝐚̣̂𝐮 𝐪𝐮𝐚̉ 𝐧𝐠𝐡𝐢𝐞̂𝐦 𝐭𝐫𝐨̣𝐧𝐠 𝐜𝐨́ 𝐭𝐡𝐞̂̉ 𝐠𝐚̂𝐲 𝐭𝐮̛̉ 𝐯𝐨𝐧𝐠.

Rủi ro của phương pháp thanh lọc máu như thẩm phân phúc mạc, chạy thận nhân tạo, siêu lọc máu cho đến DFPP, tất cả rủi ro đều như nhau, trong đó hội chứng mất cân bằng là phổ biến nhất, đông máu trong lòng mạch là di chứng dễ gây ra nhất, thuyên tắc khí là nguy hiểm nhất, có thể dẫn đến tử vong trong những trường hợp nghiêm trọng.

Đầu tiên là hội chứng mất cân bằng, đây là biến chứng mà hầu hết bệnh nhân sẽ gặp phải sau khi lọc máu. Đặc biệt đối với những bệnh nhân có nồng độ nitơ urê trong máu cao, họ có thể gặp một số triệu chứng khó chịu ở giai đoạn đầu của quá trình thanh lọc, chẳng hạn như buồn nôn, đau đầu, co giật, huyết áp cao, thậm chí hôn mê.

Thứ hai là đông máu nội mạch, có thể xảy ra sau khi lọc máu và là nguy cơ có khả năng xảy ra cao nhất. Về mặt lâm sàng, các yếu tố như hạ huyết áp, tuổi thọ của máy lọc máu, liều lượng heparin không đủ, là những nguyên nhân có thể dẫn đến tình trạng đông máu. Tôi lấy ví dụ, những ai bị huyết khối tĩnh mạch chi dưới, thì chân sẽ sưng nóng đỏ và rất đau, dần dần lở loét hoại tử. Nếu huyết khối gây tắc động mạch chi dưới, thì sẽ làm cho chân lạnh toát, rồi hoại tử phải cắt cụt. Nhồi máu phổi, nhồi máu não, nhồi máu cơ tim đều là thảm hoạ. Đó là chưa kể tắc mạch thận, tắc mạch gan, tắc mạch mạc treo tràng.

Thứ ba là tắc mạch do bóng khí, xảy ra trong quá trình lọc máu nhân viên y tế thao tác để xảy ra sơ xuất, không khí có thể xâm nhập vào mạch máu gây ra thuyên tắc khí, có thể dẫn đến suy tim hoặc thậm chí tử vong ở bệnh nhân./.

LEAVE A RESPONSE

Your email address will not be published. Required fields are marked *