𝐁𝐚́𝐨 𝐜𝐡𝐢́ 𝐧𝐠𝐚̀𝐲 𝟐𝟏/𝟐/2024 đ𝐮̛𝐚 𝐭𝐢𝐧, 𝐦𝐨̣̂𝐭 𝐛𝐞̣̂𝐧𝐡 𝐧𝐡𝐚̂𝐧 𝐧𝐚𝐦, 𝟔𝟏 𝐭𝐮𝐨̂̉𝐢, 𝐛𝐢̣ 𝐬𝐨̉𝐢 𝐭𝐡𝐚̣̂𝐧 đ𝐞̂́𝐧 𝐁𝐞̣̂𝐧𝐡 𝐯𝐢𝐞̣̂𝐧 Đ𝐚 𝐤𝐡𝐨𝐚 𝐋𝐚̂𝐦 Đ𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐜𝐡𝐮̣𝐩 𝐗-𝐪𝐮𝐚𝐧𝐠, 𝐛𝐚́𝐜 𝐬𝐢̃ 𝐧𝐡𝐚̂̀𝐦 𝐤𝐞̂́𝐭 𝐪𝐮𝐚̉ 𝐩𝐡𝐢𝐦 𝐜𝐮̉𝐚 𝐧𝐠𝐮̛𝐨̛̀𝐢 𝐤𝐡𝐚́𝐜 𝐧𝐞̂𝐧 𝐭𝐢𝐞̂́𝐧 𝐡𝐚̀𝐧𝐡 𝐦𝐨̂̉ “𝐥𝐚̂́𝐲 𝐝𝐢̣ 𝐯𝐚̣̂𝐭 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐛𝐮̣𝐧𝐠”.
Thực ra đây không phải là mổ “lấy dị vật trong bụng”.
Làm bác sĩ, bất cứ ai nhìn vào ảnh phim chụp Xquang mà báo chí đăng, đều biết đó là cái ống thông dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang, tên gọi chuyên môn là “sonde urinaire double J”, gọi tắt là “sonde JJ” hoặc “DJ stent”, gọi dân dã là ‘sonde đuôi lợn’.
Ai đã từng phẫu thuật hay tán sỏi thận, sỏi niệu quản, về cơ bản đều từng nghe đến sonde này.

Sonde JJ là một ống rỗng uốn cong như cái đuôi lợn ở cả hai đầu, một đầu của nó được đặt vào bể thận, đầu còn lại được đặt vào bàng quang. Vì đầu sonde uốn cong đuôi lợn, nên sẽ giữ cố định để không di chuyển, không tuột ra khỏi vị trí.
Sau tán sỏi, hoặc phẫu thuật lấy sỏi ở thận hay ở niệu quản, bác sĩ đặt sonde JJ nhằm hai mục đích. Một là, do ống sonde rỗng, nên có tác dụng dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang được thông thoáng. Thứ hai, sonde cũng làm giãn niệu quản thụ động, giúp tống các mảnh sỏi nhỏ ra ngoài mà không bị làm tắc niệu quản. Hầu hết các trường hợp tán sỏi hay phẫu thuật lấy sỏi đều đặt sonde này. Chỉ một số rất ít trường hợp sỏi cực nhỏ, mố lấy sỏi dễ dàng hoặc thời gian tán sỏi ngắn, tổn thương niệu quản ít và dự đoán tình trạng phù nề niệu quản không rõ ràng, thì có thể không cần đặt sonde JJ.
Thời gian đặt sonde JJ khoảng 2- 6 tuần, nếu bị hẹp niệu quản hoặc các tình huống đặc biệt khác, thì sonde có thể để lâu hơn. Nếu sonde để lâu không lấy ra, bệnh nhân có thể đau, có thể đái máu, tiểu buốt rắt, viêm đường tiết niệu, vì thế mà sonde JJ thường được rút ra sớm sau khi đã ổn định.
Rút sonde JJ chỉ là thủ thuật.
Đây không phải là cuộc mổ như báo chí đăng, sonde JJ cũng không phải là “dị vật” mà do bác sĩ đặt có chủ đích, khi rút chỉ là một thủ thuật nội soi bàng quang.
Khi thực hiện rút sonde JJ, bệnh nhân có thể được gây tê tại chỗ, bằng cách bơm thuốc tê vào niệu đạo để các tế bào niêm mạc niệu đạo hấp thụ thuốc. Nhưng bệnh nhân vẫn có thể hơi đau khoảng 10s khi đặt ống nội soi. Để bệnh nhân không đau, các bác sĩ có thể gây mê đường tĩnh mạch, đây là phương pháp gây mê nhẹ nhàng, bệnh nhân chỉ như giấc ngủ rất sâu rồi tỉnh ngay sau khi làm thủ thuật.
Kĩ thuật rút sonde đơn giản trong vài phút.
Bệnh nhân nằm trên bàn nội soi, tư thế sản khoa, tức là gác chân lên cao và dạng ra. Bác sĩ tiến hành tiêm thuốc mê vào tĩnh mạch để bệnh nhân ngủ. Sau đó sát khuẩn toàn bộ vùng kín bằng dung dịch sát trùng có Iode. Tiến hành đặt máy nội soi vào bàng quang, qua camera quan sát thấy đầu sonde JJ, bác sĩ kẹp đầu sonde JJ rồi tiến hành rút ra nhẹ nhàng như rút sonde tiểu.
Trở lại vụ việc ở BVĐK Lâm Đồng.
Bệnh nhân là ông Nguyễn Hồng Hải (61 tuổi), theo người nhà kể, đã từng mổ sỏi thận 17 năm trước, gần đây xuất hiện đau hông và tiểu buốt nên đi khám ở bệnh viện huyện Lâm Hà, kết quả chụp Xquang phát hiện có sỏi thận tái phát, bác sĩ khuyên đến BVĐK tỉnh Lâm Đồng để xử lí.
Ngày 20 tháng 2, bệnh nhân đến BVĐK Lâm Đồng khám nhưng không mang theo phim Xquang, đây là tình huống thường gặp ở hầu hết người bệnh. Về nguyên tắc, bệnh tật là cả một quá trình, bác sĩ rất cần xem xét hồ sơ bệnh án, xét nghiệm, phim ảnh của các lần trước đó, của bệnh viện tuyến dưới. Nhưng bệnh nhân đều không mang theo. Có những kết quả được sử dụng không cần làm lại, có kết quả để so sánh tổn thương, đánh giá tiến triển của bệnh. Bệnh nhân không mang theo hồ sơ cũ, do “không tin” tuyến dưới, do không hiểu biết, thậm chí muốn thử xem trình độ bác sĩ đang khám cho mình như thế nào; dù là lí do gì thì phần thiệt hại vẫn là bệnh nhân.
Ở các nước y học phát triển, việc không cung cấp hồ sơ bệnh án cũ, bệnh nhân có thể sẽ bị từ chối khám.
Tại BVĐK Lâm Đồng, ông Hải được bác sĩ chỉ định chụp X quang hệ niệu. Sau khi có kết quả X quang, bác sĩ Dương Xuân Kỳ, Khoa Ngoại tổng hợp của bệnh viện khám, hỏi rõ bệnh nhân Hải về tiền sử bệnh, sau đó tư vấn bệnh nhân còn sonde JJ trong niệu quản nên cần làm thủ thuật nội soi bàng quang chẩn đoán và rút sonde JJ.
Tuy nhiên, khi tiến hành thủ thuật nội soi bàng quang cho bệnh nhân Hải, bác sĩ Dương Xuân Kỳ không tìm không thấy sonde JJ. Nghi ngờ có sự cố nhầm lẫn nên đã báo cáo với lãnh đạo khoa, đồng thời, ê kíp đưa bệnh nhân đến Khoa Chẩn đoán hình ảnh chụp lại phim X quang. Sau đó xác định, kết quả X quang trước đó trả cho ông Hải nhầm với một bệnh nhân khác.
Cùng ngày bệnh nhân ổn định nên được xuất viện.
Ngày 21/2, BVĐK Lâm Đồng đã họp khẩn cấp phân tích, rút kinh nghiệm, kiểm điểm cá nhân có liên quan và thành lập Hội đồng kỉ luật để có hình thức xử lí kỉ luật phù hợp. Ngày 22/2, Ban Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng đã đến nhà ông Nguyễn Hồng Hải thăm hỏi, động viên và gửi lời xin lỗi tới cá nhân ông Hải cùng gia đình vì sự cố nhầm lẫn này. Cùng ngày, Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo ngành y tế Lâm Đồng xin lỗi và xem xét nguyện vọng của người bệnh để giải quyết hợp tình, hợp lí, đồng thời làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể, đề xuất hình thức xử lí. Ngay sau đó, các bệnh viện trong toàn quốc đã nhắc nhở chấn chỉnh bác sĩ, nhắc nhở Khoa Chẩn đoán Hình ảnh có biện pháp kiểm soát phim, để tránh xảy ra tình trạng trả phim nhầm như BVĐK Lâm Đồng.

𝐓𝐫𝐞̂𝐧 𝐭𝐡𝐞̂́ 𝐠𝐢𝐨̛́𝐢, 𝐩𝐡𝐚̂̃𝐮 𝐭𝐡𝐮𝐚̣̂𝐭 𝐬𝐚𝐢 𝐛𝐨̣̂ 𝐩𝐡𝐚̣̂𝐧 𝐜𝐨̛ 𝐭𝐡𝐞̂̉, 𝐬𝐚𝐢 𝐛𝐞̂𝐧 𝐜𝐨̛ 𝐭𝐡𝐞̂̉, 𝐬𝐚𝐢 𝐛𝐞̣̂𝐧𝐡 𝐧𝐡𝐚̂𝐧 𝐥𝐚̀ 𝐦𝐨̣̂𝐭 𝐬𝐚𝐢 𝐬𝐨́𝐭 𝐲 𝐭𝐞̂́ 𝐤𝐡𝐚́ 𝐩𝐡𝐨̂̉ 𝐛𝐢𝐞̂́𝐧. 𝐓𝐚̣𝐢 𝐌𝐲̃ 𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐭𝐢́𝐧𝐡 𝐦𝐨̂̃𝐢 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐱𝐚̉𝐲 𝐫𝐚 𝟒𝟎 𝐜𝐚, 𝐨̛̉ 𝐀𝐧𝐡 𝐯𝐚̀ 𝐱𝐮̛́ 𝐖𝐚𝐥𝐞𝐬 𝐛𝐚́𝐨 𝐜𝐚́𝐨 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐬𝐨̂́ 𝟏𝟐𝟗.𝟒𝟏𝟗 𝐜𝐚 𝐬𝐚𝐢 𝐬𝐨́𝐭 𝐝𝐚̂̃𝐧 đ𝐞̂́𝐧 𝐭𝐨̂̉𝐧 𝐭𝐡𝐮̛𝐨̛𝐧𝐠 𝐨̛̉ 𝐜𝐚́𝐜 𝐦𝐮̛́𝐜 đ𝐨̣̂ 𝐤𝐡𝐚́𝐜 𝐧𝐡𝐚𝐮 𝐭𝐡𝐢̀ 𝐜𝐨́ 𝟐𝟕𝟏 𝐭𝐫𝐮̛𝐨̛̀𝐧𝐠 𝐡𝐨̛̣𝐩 𝐭𝐮̛̉ 𝐯𝐨𝐧𝐠, 𝐥𝐚̀𝐦 𝐭𝐡𝐞̂́ 𝐧𝐚̀𝐨 đ𝐞̂̉ 𝐠𝐢𝐚̉𝐦 𝐭𝐡𝐢𝐞̂̉𝐮 𝐬𝐚𝐢 𝐬𝐨́𝐭 𝐧𝐚̀𝐲 𝐥𝐚̀ 𝐯𝐚̂́𝐧 đ𝐞̂̀ 𝐜𝐮̛̣𝐜 𝐤𝐢̀ 𝐪𝐮𝐚𝐧 𝐭𝐫𝐨̣𝐧𝐠.
Ông tổ nghề y Hippocrates (khoảng 460 TCN – 377 TCN) đã cảnh báo: Phẫu thuật sai vị trí và sai bệnh nhân là tai biến nghiêm trọng thứ tư có thể gây tử vong, đứng sau các biến chứng trong phẫu thuật, sau phẫu thuật, cũng như sai sót về thuốc.
Sai sót về thông tin lâm sàng và sai sót về nhầm lẫn phim Xquang, đó là hai nguyên nhân phổ biến nhất, dẫn đến mổ sai vị trí hoặc mổ nhầm bệnh nhân.
Trong bài báo “Nỗi đau phẫu thuật sai vị trí – The pain of wrong site surgery”, báo Washington Post ngày 20 tháng 6 năm 2011 cho rằng tình trạng này chưa hề được cải thiện, dữ liệu mà tờ báo này đưa ra là trung bình mỗi tuần ở Mỹ gặp 40 ca. Con số cao đến mức khó tin. Nhưng nó cũng phù hợp với số liệu thống kê bởi Seiden và Barach, mỗi năm ở Mỹ có từ 1300 – 2700 ca mổ sai, trong khi dữ liệu từ Uỷ ban Hỗn hợp tiết lộ con số mổ sai 6 tháng đầu năm 2011 là 531 ca so với 418 ca của cả năm 2004.
Theo các báo cáo, thì phẫu thuật chỉnh hình mổ nhầm nhiều nhất, tiếp theo là phẫu thuật tổng quát, sau đó là phẫu thuật thần kinh, rồi đến phẫu thuật tiết niệu, lần lượt sau đó là nha khoa và hàm mặt, lồng ngực, tai mũi họng, nhãn khoa.
Trên thế giới, chuyện đau chân phải mổ chân trái không có gì lạ, nhưng phổ biến hơn vẫn là nhầm lẫn ở bàn tay, sau đó tới bàn chân, rồi đến khớp gối. Chuyện mổ nhầm thận, thậm chí cắt nhầm thận, quên rút sonde JJ hay rút bỏ sót cũng thường xảy ra. Và tương tự, các nha sĩ nhổ răng lành để lại răng sâu, hay một răng sâu lại nhổ nguyên nửa hàm, cũng không hiếm.
Có 3 yếu tố dẫn đến mổ sai.
Đầu tiên là yếu tố môi trường làm việc không tốt, tức là quy trình lỏng lẻo, không có biện pháp phòng ngừa sai sót, khả năng làm việc nhóm kém, sự gắn kết giữa các nhân viên không tốt.
Thứ hai là yếu tố con người, chẳng hạn như tình trạng mệt mỏi, quá tải, căng thẳng nhất là trong những tình huống cấp cứu. Một điều tra phẫu thuật sai ở New Zealand cho thấy, 25% là do bác sĩ mắc sai lầm về thông tin lâm sàng và nhầm lẫn phim Xquang, 16% là do đánh dấu nhầm vị trí mổ, 16% do bác sĩ nhớ sai; như vậy tổng số 52% sai sót do yếu tố cá nhân.
Thứ ba là yếu tố bệnh nhân, ngày càng nhận thấy rằng sự tham gia của bệnh nhân vào việc đánh dấu bên phẫu thuật có thể làm giảm tỉ lệ mắc sai bên, sai vị trí, sai người bệnh. Tuy nhiên, nhiều yếu tố như vấn đề về hành vi của bệnh nhân, rào cản ngôn ngữ, sự tuân thủ, thiếu hụt kiến thức, nỗi sợ hãi, mức độ nhạy cảm của bệnh tật, v.v. đều góp phần gây ra sai sót mổ nhầm.
Để giảm thiểu những sai sót này, năm 2008, Tổ chức Y tế Thế giới WHO đã phát động Giải pháp Quản lí chất lượng và An toàn người bệnh, bằng cách thực hiện “Bảng kiểm An toàn Phẫu thuật – Surgical safety checklist”.
Danh sách bảng kiểm bao gồm ba phần: Trước gây mê, có 7 nội dung, ít nhất một điều dưỡng và một bác sĩ gây mê thực hiện; Trước khi rạch da, có 10 nội dung, do một điều dưỡng, gây mê, cùng phẫu thuật viên thực hiện; Trước khi bệnh nhân rời phòng mổ, có 5 nội dung, do điều dưỡng, gây mê, phẫu thuật viên thực hiện.
Tóm lại là, phẫu thuật sai vị trí, sai bên, sai bệnh nhân có thể là một thảm họa tàn khốc không chỉ đối với bệnh nhân và gia đình, mà còn là thảm hoạ đối với các bác sĩ và cơ sở y tế. Đây là sai lầm không thể chấp nhận được cả về mặt pháp lí và đạo đức. Nhưng sai lầm hoàn toàn có thể phòng ngừa được. Việc phòng ngừa không thể chỉ là trách nhiệm của một người, mà phải là trách nhiệm tập thể của cả tập thể chăm sóc bệnh nhân, trong đó sự tham gia của bệnh nhân cũng cần được nhấn mạnh.
Thật may mắn, Việt Nam đã làm rất tốt về mặt này, xét cho cùng, các bệnh viện ở Việt Nam có số lượng ca phẫu thuật lớn, nhưng sự nhầm lẫn khá hiếm, tuy nhiên không vì thế mà các bác sĩ chủ quan mà cần phải ý thức hơn nữa./.